Chiếc địu đã trở thành phong tục, thành nét văn hóa đẹp của đa số đồng bào các dân tộc vùng cao ở Việt Nam. Ngoài yếu tố về vật chất thì sản phẩm dệt còn mang yếu tố tinh thần, tâm linh sâu sắc như: Dùng để làm đẹp; đánh giá tài năng, đức tính của phụ nữ. Nét đẹp này đặc biệt thể hiện rõ nét ở đồng bào Tày, Thái.
Trong bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có câu: “ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”. Hình ảnh người mẹ vùng cao địu con đã trở thành nghệ thuật, nét đẹp trong thi ca. Và tục địu con cũng lan tỏa trong cộng đồng của rất nhiều dân tộc.
Cùng với sự ra đời của những chiếc nôi, và từ điều kiện phải lên nương rẫy, hay làm ruộng vất vả nên phụ nữ người Thái đã rất sáng tạo khi biết thiết kế ra những chiếc địu xinh xắn bằng vải thổ cẩm đa sắc màu sặc sỡ. Địu là sản phẩm của nghề dệt, dùng để địu trẻ con, địu còn là quà tặng của bà ngoại, các bà cô, bà bá (bác) cho cháu, là tình cảm của cha mẹ dành cho con cái.
Địu dân tộc Thái được làm bằng vải chàm nhuộm đen, hai dây dài sải rộng hình cánh rơi. Thân địu ở giữa được ghép bằng độ rộng của khổ vải thái (40cm) và cũng là độ rộng của 2 đầu sải vải bổ chéo cánh sẻ. Địu được chia thành 2 phần "Sai la" - là dây địu và "sa lăng la" - là mặt địu. Mặt địu được đặt đằng sau lưng đứa trẻ để lộ phần trang trí ra phía ngoài khi địu. Mặt địu có phần tua rua ở phía trên gọi là "lạp la" còn phần dưới lưng gọi là "xa lăng la".
Chiếc địu giúp bé có thể xuống chợ cùng mẹ.
"Lạp la" được ghép bằng nhiều mảnh vỉa gấp hình mũi tên, rất nhiều màu sắc, nhỏ bằng 2,5cm; dài 6cm. Đó là phần làm tô điểm cho thêm phần diêm dúa của chiếc địu. Xung quanh "xa lăng la" ghép với những cạnh đường viền còn có "nhính" màu trắng, vừa là hình thức làm đẹp, vừa có tính chất đuổi ma tà, từ đó bé sẽ ngủ ngon hơn trên lưng người lớn.
Phần mặt địu thường làm bằng một quả khít hay thêu hình quả trám, hoặc hoa mướp, hoa bầu... Hai bên cạnh sườn của mặt địu cũng được trang trí đường viền màu xanh, màu hồng rất đẹp mắt, vừa trang nhã bởi những quả núi nhỏ màu trắng đi kèm. Ở giữa là mối khít để dọc theo thân địu thẳng đứng thường quả màu xanh, tím, vàng. Hai bên sải dây dài là dây được viền bởi vải khít đa sắc màu sặc sỡ. Sự đa sắc màu của vải khít tơ tằm cùng với những đường viền quanh dây địu, "lạp la" tượng trưng cho 8 tia nắng, 9 tia mưa (theo nghĩa của người xuôi là 7 sắc cầu vồng). Nó là sự kết hợp hài hòa tượng trưng cho trời, đất, mây, mưa, sấm chớp, cây cỏ cùng hoa lá và ánh nắng mặt trời... trông thật đẹp mắt. Điều đó còn thể hiện sự pha màu khéo léo cùng với tính nghệ thuật thẩm mỹ của người thiết kế chiếc địu.
Đứa trẻ được địu sẽ có thể chơi, ngủ... trong sự an toàn và quan tâm của người mẹ.
Bằng chiếc địu xinh xắn, bé có thể yên tâm theo mẹ lên nương rẫy, giã gạo, nấu cơm, dệt vải, tưới rau, đi chợ... Đó cũng là thể hiện sự vất vả của người phụ nữ nông thôn miền núi khi xưa chưa có nhà trẻ gửi con. Giúp những bà mẹ có thể vừa trông con, vừa rảnh tay để làm việc: từ những việc nhẹ nhàng như nấu cơm, giặt giũ, dệt vải đến những việc nặng nhọc; làm nương, lấy củi, gánh nước. Đứa trẻ được địu sẽ có thể chơi, ngủ... trong sự an toàn và quan tâm của người mẹ.
Người Thái khi sinh nở, họ không bao giờ chuẩn bị sẵn đồ cho trẻ sơ sinh mà đến khi mẹ tròn con vuông, từ khoảng 10 ngày đến một tháng họ mới may cắt quần áo cho đứa trẻ, còn địu thì thường là do bà ngoại làm tặng cho cháu. Ngày bắt đầu mới cắt may địu cũng phải được chọn, theo quan niệm đồ của đứa trẻ sơ sinh phải được gắn với số mệnh của đứa trẻ, nên khi cắt may địu, họ phải chọn ngày sinh của đứa trẻ, họ cho rằng ngày đứa trẻ được sinh ra, đứa trẻ sẽ mang theo suốt cả cuộc đời, gắn với số mệnh của nó. Khi cắt may họ phải chọn loại vải thổ cẩm nào đẹp nhất để làm mặt địu, vừa là quà mừng, vừa là tình cảm của bà ngoại dành cho cháu đầu lòng, những đứa trẻ sau khi sinh ra, bà ngoại cũng có thể tặng địu hoặc một tấm vải thổ cẩm đẹp để con gái tự cắt may địu cho con mình.
Ngày nay, với nhiều phương tiện trông trẻ hiện đại nhưng việc địu con vẫn được người mẹ Thái sử dụng, đó là tinh hoa được chắt lọc trong văn hóa truyền thống của người Thái, nên vẫn được bảo tồn và gìn giữ.